Hoa Văn
Loài hổ (cọp) có thể đã tuyệt chủng tại Việt Nam. Đó là một sự thật đáng buồn, thậm chí đau lòng luyến tiếc. Trong suốt một thời gian dài khoảng trên 15 năm qua (từ năm 1990), tại Việt Nam không có thêm bất kỳ ghi nhận nào mới về dấu hiệu của hổ ngoài môi trường tự nhiên. Nhiều chuyên gia cho rằng tại Việt Nam loài hổ đã tuyệt chủng, ngay cả trong khu bảo tồn thiên nhiên hoặc vườn quốc gia cũng không còn hổ. Khi nào chúng ta có thể thấy một con hổ (dù là cuối cùng) xuất hiện ngoài thiên nhiên hoang dã ở Việt Nam?
<< Ảnh: Một con cọp Đông Dương ngoài tự nhiên, ảnh chụp tại Việt Nam từ những năm 1930
Những thông tin cuối cùng về loài hổ tại Việt Nam
Năm 2011: Theo cáo cáo điều tra khảo sát của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, tại 6 tỉnh Quảng Nam, Hà Tĩnh, Nghệ An, Điện Biên, Kon Tum và Đăk Lăk “có khả năng” có quần thể hổ hoang dã, với khoảng từ 27 đến 47 cá thể. Nhưng số lượng hổ này được giải thích là bao gồm cả số cá thể hổ từ Campuchia và Lào di chuyển tự nhiên qua biên giới Việt Nam. Bởi khu vực phát hiện có dấu vết hổ đều ở khu rừng đặc dụng có chung biên giới với hai quốc gia này. Điều này cũng cho thấy, số lượng hổ ở ba nước Đông Dương hiện rất thấp và ở mức cực kỳ nguy cấp. (Ghi chú: Tuy vậy, người ta cũng chưa thấy những bằng chứng cụ thể nào, chẳng hạn là bức ảnh chụp một con hổ thật ngoài tự nhiên, của Nhóm nghiên cứu, được công khai).
Năm 2015: Liên minh bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) ước đoán tại Việt Nam chỉ còn DƯỚI 5 CÁ THỂ HỔ. Ước đoán tức là không chắc chắn đúng.
Năm 2011: Theo cáo cáo điều tra khảo sát của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, tại 6 tỉnh Quảng Nam, Hà Tĩnh, Nghệ An, Điện Biên, Kon Tum và Đăk Lăk “có khả năng” có quần thể hổ hoang dã, với khoảng từ 27 đến 47 cá thể. Nhưng số lượng hổ này được giải thích là bao gồm cả số cá thể hổ từ Campuchia và Lào di chuyển tự nhiên qua biên giới Việt Nam. Bởi khu vực phát hiện có dấu vết hổ đều ở khu rừng đặc dụng có chung biên giới với hai quốc gia này. Điều này cũng cho thấy, số lượng hổ ở ba nước Đông Dương hiện rất thấp và ở mức cực kỳ nguy cấp. (Ghi chú: Tuy vậy, người ta cũng chưa thấy những bằng chứng cụ thể nào, chẳng hạn là bức ảnh chụp một con hổ thật ngoài tự nhiên, của Nhóm nghiên cứu, được công khai).
Năm 2015: Liên minh bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) ước đoán tại Việt Nam chỉ còn DƯỚI 5 CÁ THỂ HỔ. Ước đoán tức là không chắc chắn đúng.
“Việt Nam đã mất đi tê giác cuối cùng, liệu hổ có nối gót?” – đại diện Trung tâm Giáo dục thiên nhiên (ENV) cảnh báo. Ông cũng cho biết Campuchia đã tuyên bố hổ tại quốc gia này đã tuyệt chủng.
Đến nay (năm 2018), dù không có thêm khảo sát, nhưng nhiều nhà khoa học tin rằng tại Việt Nam không còn hổ hoang dã.
Giải thích về lý do vì sao không khảo sát về thực trạng hổ hoang dã tại Việt Nam, một chuyên gia cho biết để thực hiện được các nghiên cứu và khảo sát, thì cần có dấu hiệu về sự xuất hiện của hổ ở một địa phương nhất định. Nhưng suốt thời gian dài không có dấu tích nào xuất hiện.
Theo giám đốc một Vườn quốc gia, lâu lắm rồi ông và đồng nghiệp không nhận được thông báo về vết chân hay những lần gia súc bị loài hổ ăn thịt như trước. “Hổ hoang dã Việt Nam có thể đã biến mất. Nếu có thì chúng thường phân bố ở khu vực giáp biên giới với Lào và Campuchia, từ Nghệ An đến Quảng Nam; Chư Mon Ray (Kon Tum); Bù Gia Mập (Bình Phước), nhưng tần suất xuất hiện của loài rất ít và gần như không có”, ông nói.
Ông Thomas Gray, Giám đốc về loài của WWF-Greater Me Kong nói: “Hiện không có số liệu cập nhật về sự xuất hiện của hổ tại Việt Nam, khả năng cao loài này đã tuyệt chủng. Trường hợp hổ còn tồn tại thì cũng chỉ rất ít và nằm rải rác tại các khu rừng nên không có khả năng tái tạo sinh sản và dần dần sẽ tuyệt chủng”. “Hổ có thể đã tuyệt chủng và voi thì bên bờ tuyệt chủng nếu như không có hành động bảo tồn mạnh mẽ”, đại diện của WWF nói thêm.
Thử dò trên Google search, những thông tin về hổ hoang dã ở Việt Nam đã “kết thúc” từ thời điểm đầu năm 2015.
Tháng 3/2015, một bài báo trên VTV đăng tít giật gân “Phát hiện chấn động ở Tuyên Quang: Đàn hổ hoang dã sống cạnh dân”. Tuy nhiên, nội dung chỉ là những lời kể không rõ ràng, và điều quan trọng nhất là không có một chứng cứ cụ thể nào.
Về mặt khoa học và chính thức, kể từ năm 2009, không có ghi nhận nào về hổ hoang dã tại Việt Nam. Việt Nam cũng không thực hiện khảo sát quốc gia về hổ tự nhiên.
Trên thực tế, hầu như rất hiếm nghe ai nói về chuyện bắt hổ, hay thấy hổ trong những năm chiến tranh khốc liệt 1960-1970.
Sau năm 1975, từ khi đất nước thống nhất tới nay, hầu như cũng rất ít thông tin về hổ.
Thỉnh thoảng, báo chí có đưa tin về những bị vận chuyển, tàng trữ hổ trái phép. Nhưng đa phần đều là hổ có nguồn gốc nhập lậu từ nước ngoài, không phải là giống hổ Đông Dương.
Mới đây nhất, ngày 10/3/2018, báo Dân Trí đưa tin một người đàn ông ở huyện Đức Trọng (tỉnh Lâm Đồng) bị phát hiện đã ngâm xác một con hổ trong bình rượu và tàng trữ 1 con khác (đã chết) bị phạt 75 triệu đồng.
Ghi chú: Hiện nay trong sở thú tại Hà Nội và TP.HCM đang có nuôi nhốt một vài cá thể hổ Đông Dương cuối cùng.
Trên quy mô toàn cầu, số lượng hổ đang ngày càng suy giảm nhanh chóng và đi đến tuyệt chủng là do bị con người săn bắt, buôn bán trái phép.
Từ năm 2008 đến nay, có hàng trăm vụ buôn bán trái phép hổ được phát hiện và xử lý.
Tại khu vực châu Á, việc phá rừng, chuyển đổi đất cũng là lý do đẩy loài thú lớn như voi, tê giác, hổ đến tuyệt chủng vì thiếu thức ăn và nơi cư trú. Hổ phân bố rải rác thành các quần thể nhỏ, không có sự giao lưu, trao đổi di truyền cũng có thể dẫn đến hiện tượng suy thoái nguồn gene.
Mặc dù chúng ta hô hào bảo vệ loài hổ. Nhưng phải chăng đã quá trễ để hành động?
Từ năm 2008 đến nay, có hàng trăm vụ buôn bán trái phép hổ được phát hiện và xử lý.
Tại khu vực châu Á, việc phá rừng, chuyển đổi đất cũng là lý do đẩy loài thú lớn như voi, tê giác, hổ đến tuyệt chủng vì thiếu thức ăn và nơi cư trú. Hổ phân bố rải rác thành các quần thể nhỏ, không có sự giao lưu, trao đổi di truyền cũng có thể dẫn đến hiện tượng suy thoái nguồn gene.
Mặc dù chúng ta hô hào bảo vệ loài hổ. Nhưng phải chăng đã quá trễ để hành động?
Ước lượng số lượng hổ tại một số quốc gia theo kết quả nghiên cứu, khảo sát năm 2015
Một thời lừng lẫy của chúa sơn lâm
Do địa thế rừng núi hiểm trở và trải dài bất tận (dãy Trường Sơn), nên miền Trung VN từ nhiều thế kỷ qua nổi danh là vương quốc của loài thú quý hiếm và dũng cảm bậc nhất này.
Hổ từng một thời sinh sống khá nhiều trong rừng. Người dân luôn rất sợ loài thú dữ này. Từ lâu đã có những câu tục ngữ về loài hổ như: “Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận”, “hùm tha sấu bắt” – thể hiện nỗi hãi hùng của người dân về hổ.

Trong sách Đại Nam Nhất Thống Chí, có kể về một người phụ nữa có tài đánh hổ rất nổi tiếng. Bà tên là Trần thị Quyền, thuộc huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình Định. Do công lao giết hạ được nhiều con hổ dữ, ổn định cuộc sống người dân, bà được vua Tự Đức phong cho danh hiệu “liệt nữ”, ghi trong Quốc Sử Quán.
Theo lời cụ Hoàng Nợ (đã trên 90 tuổi, cư ngụ tại Đà Lạt, người từng là cận vệ, theo “hầu” vua Bảo Đại đi săn hổ những năm 1930) thì vùng rừng Đắk Lắk khi đó “thú nhiều vô kể, đặc biệt là cọp, voi rừng và con min (bò tót) con nào con nấy to đùng, nặng hàng tấn”.
Tư liệu nghiên cứu về hổ và đời sống người dân vùng Tây Nguyên (dân tộc Gia rai, vùng Đắc Lắc) của Jacques Dournes cung cấp nhiều thông tin thú vị về loài hổ ở Việt Nam:
Một thời lừng lẫy của chúa sơn lâm
Do địa thế rừng núi hiểm trở và trải dài bất tận (dãy Trường Sơn), nên miền Trung VN từ nhiều thế kỷ qua nổi danh là vương quốc của loài thú quý hiếm và dũng cảm bậc nhất này.
Hổ từng một thời sinh sống khá nhiều trong rừng. Người dân luôn rất sợ loài thú dữ này. Từ lâu đã có những câu tục ngữ về loài hổ như: “Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận”, “hùm tha sấu bắt” – thể hiện nỗi hãi hùng của người dân về hổ.

Trong sách Đại Nam Nhất Thống Chí, có kể về một người phụ nữa có tài đánh hổ rất nổi tiếng. Bà tên là Trần thị Quyền, thuộc huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình Định. Do công lao giết hạ được nhiều con hổ dữ, ổn định cuộc sống người dân, bà được vua Tự Đức phong cho danh hiệu “liệt nữ”, ghi trong Quốc Sử Quán.
Theo lời cụ Hoàng Nợ (đã trên 90 tuổi, cư ngụ tại Đà Lạt, người từng là cận vệ, theo “hầu” vua Bảo Đại đi săn hổ những năm 1930) thì vùng rừng Đắk Lắk khi đó “thú nhiều vô kể, đặc biệt là cọp, voi rừng và con min (bò tót) con nào con nấy to đùng, nặng hàng tấn”.
Tư liệu nghiên cứu về hổ và đời sống người dân vùng Tây Nguyên (dân tộc Gia rai, vùng Đắc Lắc) của Jacques Dournes cung cấp nhiều thông tin thú vị về loài hổ ở Việt Nam:
“Cọp không phải lúc nào cũng chỉ là con cọp. Người Gia Rai thường xuyên chung đụng với cọp, có những quan hệ phức tạp. Nói chung thì người không săn cọp, cả hai bên đều là thợ săn, sống chung hòa bình trong thỏa ước tôn trọng lẫn nhau. Thần Hổ, yang ramung cũng là Thần Rừng Yang dlei bảo vệ người thợ săn mogap. Cũng có lúc người buộc lòng phải giết hổ, thì xem như là “án mạng” theo nghĩa giới luật – hay pháp luật-, được xét xử là “ngộ sát” và phải đền bù bằng “giá mạng”: sinh mạng cọp ngang giá với sinh mạng người, ngang với mười lăm con trâu.
Lễ đền mạng phải bốn người chứng giám và bảo lãnh: hai chứng nhân phía người, hai chứng nhân về phía cọp, trong khi chủ tế xướng: “Hôm qua, hôm kia, con người đã giết ông. Hôm nay nó trả nợ. Việc như vậy là xong. Ông an nghỉ, đừng tức giận chúng tôi. Chúng tôi mang lễ vật đầy đủ. Đừng sát hại chúng tôi và con cháu chúng tôi”. Rồi chủ tế ném một vòng đeo tay xuống thi hài cọp”.
Tại miền Bắc, nhiều nơi vẫn còn dấu vết phong tục thờ Thần Hổ, theo niềm tin nguyên thủy có từ thời Văn Lang, người dân vẫn chống hổ, diệt hổ để bảo vệ gia súc.
Ở miền Nam tuy là đồng bằng, nhưng cũng đã từng có thời là nơi sinh sống của loài hổ. Nhà văn Sơn Nam đã ghi lại trong tác phẩm nghiên cứu về mình một số chứng cớ về cọp ở Nam Bộ. Ông viết: “Hồi thế kỷ 17 và 18, Gia định thành Thống chí (của Trịnh Hoài Đức 1725-1825) ghi rằng: “trẻ con, đàn bà cầm liềm cắt cỏ, cầm đòn xóc cũng chống cự và đuổi được cọp. Thái độ của người dân đối với cọp vừa kính nể, xem như vị thần, nhưng cũng coi thường, nếu cần thì rủ nhau đi săn bắn giết không nương tay”.
Sơn Nam cũng bổ sung: “vì còn dấu vết mê tín cổ xưa, đồng bào ta ít chịu tổ chức săn cọp; khi nào gặp những con có nợ máu thì huy động cả xóm đi ví khai hoặc bẫy hầm. Nhà nước khuyến khích giết cọp nhưng hương chức hội tề chỉ làm lấy lệ”. (Ghi chú: “Nhà nước” đây là chính quyền Pháp thuộc khi đó).
Theo nhân sỹ Trịnh Hoài Đức, năm 1770 hổ từng xuất hiện tại khu vực chợ Tân Kiểng, Sài Gòn. Trịnh Hoài Đức tường thuật vụ bắt cọp ly kỳ như sau: “Người ta triệt hạ nốc nhà, làm hàng rào vây quanh mấy lớp. Nhưng cọp rất dữ ác, không ai dám gần. Vây được ba ngày, có thầy sãi viễn phương hiệu Hồng-Ân cùng đồ đệ Trí-Năng tình nguyện vào bắt cọp. Hồng Ân đấu với cọp hồi lâu, cọp bị côn đánh đau, nhảy núp vào bụi tre. Hồng Ân đuổi nà, cọp quay lại đấu nữa. Hồng Ân thối lui, vấp chân ngã vào mương nước, bị cọp vồ trọng thương. Đồ đệ Trí Năng tiếp viện, dùng côn đánh cọp trúng đầu cọp chết nốt”.
Hổ cũng được nhắc đến trong khá nhiều tác phẩm văn học hiện đại. Đơn cử như trong truyện Quê Nội của Võ Quảng có đoạn nói về một người đàn ông chuyên nghề bắt hổ ở vùng Quảng Nam. Hay trong truyện thiếu nhi Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi, cũng có nói tới chuyện ma hổ rất “rùng rợn”, ly kỳ…vv.
Tuy nhiên, tất cả đã trở thành dĩ vãng.
..........
Tại miền Bắc, nhiều nơi vẫn còn dấu vết phong tục thờ Thần Hổ, theo niềm tin nguyên thủy có từ thời Văn Lang, người dân vẫn chống hổ, diệt hổ để bảo vệ gia súc.
Ở miền Nam tuy là đồng bằng, nhưng cũng đã từng có thời là nơi sinh sống của loài hổ. Nhà văn Sơn Nam đã ghi lại trong tác phẩm nghiên cứu về mình một số chứng cớ về cọp ở Nam Bộ. Ông viết: “Hồi thế kỷ 17 và 18, Gia định thành Thống chí (của Trịnh Hoài Đức 1725-1825) ghi rằng: “trẻ con, đàn bà cầm liềm cắt cỏ, cầm đòn xóc cũng chống cự và đuổi được cọp. Thái độ của người dân đối với cọp vừa kính nể, xem như vị thần, nhưng cũng coi thường, nếu cần thì rủ nhau đi săn bắn giết không nương tay”.
Sơn Nam cũng bổ sung: “vì còn dấu vết mê tín cổ xưa, đồng bào ta ít chịu tổ chức săn cọp; khi nào gặp những con có nợ máu thì huy động cả xóm đi ví khai hoặc bẫy hầm. Nhà nước khuyến khích giết cọp nhưng hương chức hội tề chỉ làm lấy lệ”. (Ghi chú: “Nhà nước” đây là chính quyền Pháp thuộc khi đó).
Theo nhân sỹ Trịnh Hoài Đức, năm 1770 hổ từng xuất hiện tại khu vực chợ Tân Kiểng, Sài Gòn. Trịnh Hoài Đức tường thuật vụ bắt cọp ly kỳ như sau: “Người ta triệt hạ nốc nhà, làm hàng rào vây quanh mấy lớp. Nhưng cọp rất dữ ác, không ai dám gần. Vây được ba ngày, có thầy sãi viễn phương hiệu Hồng-Ân cùng đồ đệ Trí-Năng tình nguyện vào bắt cọp. Hồng Ân đấu với cọp hồi lâu, cọp bị côn đánh đau, nhảy núp vào bụi tre. Hồng Ân đuổi nà, cọp quay lại đấu nữa. Hồng Ân thối lui, vấp chân ngã vào mương nước, bị cọp vồ trọng thương. Đồ đệ Trí Năng tiếp viện, dùng côn đánh cọp trúng đầu cọp chết nốt”.
Hổ cũng được nhắc đến trong khá nhiều tác phẩm văn học hiện đại. Đơn cử như trong truyện Quê Nội của Võ Quảng có đoạn nói về một người đàn ông chuyên nghề bắt hổ ở vùng Quảng Nam. Hay trong truyện thiếu nhi Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi, cũng có nói tới chuyện ma hổ rất “rùng rợn”, ly kỳ…vv.
Tuy nhiên, tất cả đã trở thành dĩ vãng.
..........
Quốc tế: Số lượng hổ tự nhiên bắt đầu gia tăng, nhưng …
Theo một bài báo trên tờ Bangkok (Thái Lan) ngày 13/4/2016, tổng số lượng cá thể hổ trong tự nhiên đã gia tăng thành 3.890 cá thể. Đây là con số được WWF và Diễn đàn Hổ Toàn cầu (GTF) công bố, dựa vào những số liệu sẵn, trước cuộc họp quan trọng về bảo tồn hổ diễn ra tại New Delhi từ ngày 12-14/4/2016 do Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi chủ trì.
Con số cập nhật ở mức tối thiểu này, được tính toán từ số liệu của IUCN và các cuộc khảo sát mới nhất về hổ ở cấp quốc gia cho thấy dấu hiệu gia tăng quần thể hổ hiện tại so với con số ước lượng 3.200 cá thể vào năm 2010.
Số liệu gia tăng này được cho là do một số các yếu tố như sự gia tăng số lượng hổ tại Ấn Độ, Nga, Nepal và Bhutan, sự tiến bộ trong việc khảo sát và việc bảo vệ hổ hiệu quả hơn.
“Sau nhiều thập kỷ quần thể hổ tự nhiên bị suy giảm số lượng nghiêm trọng, giờ đây chúng ta đã có cơ sở hy vọng cho sự tồn tại của loài này”, ông Tom Gray, Giám đốc về Loài của WWF-Greater Mekong phát biểu. “Khu vực Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng có tiềm năng to lớn cho việc phục hồi loài hổ, với hơn 100 cá thể ở Thái Lan, cùng với các kế hoạch tái giới thiệu hổ tại Cam-pu-chia và khả năng tìm thấy thêm hổ ở Myanmar, nếu khảo sát được thực hiện tại đây.”
Cuộc họp giữa chính phủ các nước có hổ sinh sống ngoài tự nhiên tại Hội nghị Bộ trưởng châu Á lần thứ 3 về Bảo tồn Hổ trong tuần này là bước đi mới nhất trong tiến trình Sáng kiến Hổ Toàn cầu, bắt đầu được khởi xướng tại Hội nghị Thượng đỉnh về Hổ diễn ra tại Nga năm 2010. Chính phủ các nước tham dự đã thống nhất với mục tiêu Tx2 là nhân đôi số lượng hổ hoang dã vào năm 2022.
Tiến sĩ Rajesh Gopal, Tổng thư ký Diễn đàn Hổ Toàn cầu, nhận định: “Cuộc họp diễn ra tại thời điểm quan trọng, đánh dấu một nửa chặng đường thực hiện mục tiêu Tx2. Chính phủ các nước có hổ hoang dã sẽ quyết định các bước tiếp theo hướng tới hoàn thành mục tiêu này, đồng thời đảm bảo hổ có sẽ có một sinh cảnh sống an toàn hơn trong tương lai của châu Á.”
Trong 3 ngày diễn ra Hội nghị, các nước sẽ báo cáo tiến độ thực hiện mục tiêu Tx2 và các kế hoạch cam kết tiếp theo. Thủ tướng Modi sẽ diễn thuyết trước Hội nghị về vai trò của hổ – một biểu tượng cho sự phồn thịnh về đa dạng sinh học của một quốc gia.
Ông Michael Baltzer, lãnh đạo Sáng kiến Tx2 của WWF nhấn mạnh: “Một kế hoạch mạnh mẽ là hết sức cấp thiết cho 6 năm tới. Tuy số lượng hổ đã ngừng suy giảm, nhưng chúng vẫn chưa có sinh cảnh sống an toàn. Điển hình như Đông Nam Á – nơi đang đối mặt với nguy cơ mất hổ cận kề nếu các chính phủ tại đây không hành động ngay lập tức.”
Cấp bách bảo vệ loài hổ
Hổ được xếp vào loại nguy cấp theo Sách đỏ của IUCN do nguy cơ săn bắt trái phép và mất sinh cảnh sống.
Theo số liệu từ TRAFFIC – Mạng lưới Giám sát Buôn bán ĐVHD, từ năm 2000 đến năm 2014, tại các quốc gia đã thu giữ được ít nhất 1.590 cá thể hổ.
Buôn bán động vật hoang dã là một ngành mang lại hàng tỉ đô la lợi nhuận.
Để bảo vệ hổ, các nước cần xác định rõ số lượng hổ mình đang có và những nguy cơ đe doạ chúng.
Năm 2014, các nước có hổ hoang dã đã nhất trí công bố ước tính số lượng hổ toàn cầu vào năm 2016, dựa trên các khảo sát quốc gia đầy đủ và có hệ thống.
Tuy nhiên, không phải quốc gia nào cũng hoàn thành hay công bố các khảo sát này. Con số ước lượng mới nhất và tối thiểu là 3.890 cá thể hổ được tổng hợp dựa vào Sách đỏ của IUCN về hổ, và dữ liệu mới nhất của các quốc gia có thực hiện khảo sát về hổ, kể từ sau đánh giá của IUCN.
WWF và GTF tuyên dương các nước có hổ hoang dã đã cập nhật số lượng hổ từ năm 2010 và khuyến khích các nước còn lại hoàn thiện và công bố khảo sát về số lượng hổ sớm nhất có thể.
Về chiến dịch Tx2:
– 100 năm trước, thế giới có khoảng 100.000 cá thể hổ trong tự nhiên.
– Năm 2010, con số này chỉ còn là 3.200. Chính phủ các nước có hổ hoang dã đã cùng cam kết nhân đôi số lượng hổ trong tự nhiên vào năm 2022, là năm Hổ theo lịch âm. Mục tiêu này được đặt tên là Tx2.
…….
Hổ Đông Dương
Hổ Đông Dương là một phân loài hổ tại khu vực Campuchia, Lào, Thái Lan, Malaysia, Myanma, miền nam Trung Quốc và Việt Nam.
Hổ Đông Dương đực trưởng thành dài khoảng 2,55 – 2,85 m (8,37-9,35 ft), cân nặng khoảng 150-195 kg, (330-430 lb). Các cá thể lớn có thể cân nặng trên 250 kg (550 lb). Hổ Đông Dương cái trưởng thành dài khoảng 2,30-2,55 m (7,55-8,37 ft), cân nặng 100–130 kg (221-287 lb).
Hổ Đông Dương cái sẽ sinh con sau khoảng 4 tháng mang thai. Mỗi lứa sinh khoảng năm con. Hổ con mới sinh nặng khoảng 1kg. Hổ con bú sữa mẹ trong 18 tháng đầu, sau đó chuyển qua ăn thịt. Sau 18 tháng, chúng bắt đầu tự săn mồi.
Hổ Đông Dương rất khỏe. Tại Việt Nam, có trường hợp đã được thông báo về một con hổ đực lớn bị giết năm 1984 gần biên giới Việt – Lào. Con hổ này dài 2,8 m, cân nặng khoảng 250kg. Nó đã “khủng bố” các khu làng trong lãnh thổ của nó trong nhiều năm trước khi bị bắn hạ. Nó đã giết chết trên 10 con trâu trong các làng, cho dù có các cố gắng của dân cư để ngăn chặn điều này. Người ta nói rằng tại một làng đã dựng lên hàng rào cao 3m xung quanh nơi nhốt gia súc, nhưng con hổ này vẫn có thể nhảy qua, giết chết một con bê, và nhảy ngược trở ra khi cắp theo con vật xấu số nặng khoảng 60 kg. Con hổ này cuối cùng đã bị giết khi dân làng đặt bẫy tại xác một con trâu. Nó bị sa bẫy khi định tha con trâu đi và bị dân làng xả súng bắn hạ. Tuy vậy, xác con hổ chỉ được tìm thấy tại một dòng suối cách đó khoảng 2 km.
Con hổ này được nuôi trong Sở thú
(Theo Wikipedia)
…..Thú săn cọp của vua Bảo Đại
Người Việt không có truyền thống lấy việc săn bắn thú lớn như voi, hổ, … làm thú vui. Việc săn bắt thú hoang chỉ nhằm mục đích làm lương thực, bảo vệ mùa màng và gia súc. Chỉ bắt đầu từ thời kỳ Pháp thuộc, cuối thể kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, tại Việt Nam mới xuất hiện việc săn bắn hổ như là một thú tiêu khiển của giới hoàng tộc, do người Pháp du nhập vào.
Những năm 1930, khi người Pháp thiết lập vững vàng nền đô hộ trên bán đảo Đông Dương, mới có lớp người săn – không phải thợ săn – da trắng săn giết cọp vô tội vạ. Ngoài ra nhiều hãng du lịch Pháp, thời 1930, đã bán những chuyến sa-pha-ri (safari) săn cọp cho du khách Âu Tây, bảo đảm một vài con hổ cho “bảng thành tích”.
Người ta nói “môn đồ” đầu tiên của thú tiêu khiển cao cấp này chính là vua Bảo Đại, thời gian những năm 1930, và sau đó là gia đình tổng thống Ngô Đình Diệm, thời gian khoảng những năm 1960. Theo thông tin, những vị này đã giết hạ khoảng 13 con hổ ở vùng rừng núi lân cận Đà Lạt – là nơi các vị cùng người thân thuộc quyến đến nghỉ dưỡng, vui thú.

Một cảnh bắt cọp ở Việt Nam những năm 1930
Thời điểm này, nhiều người còn nhắc đến những chuyến săn cọp của vua Bảo Đại thời trẻ. Tài liệu sau này, có lẽ là thuộc những chứng từ mới nhất, là hồi ký săn cọp của Huỳnh Văn Lang, Cọp cái ba con. Ông này là Giám đốc viện Hối đoái của chính quyền Sài Gòn, chủ nhiệm tạp chí Bách Khoa từ 1957, một tay săn cọp nổi tiếng. Ông kể lại chuyến săn cọp vào trước Tết 1961, đã được báo Times of Vietnamđăng ảnh như là một tin tức quan trọng.
Cuộc săn bắt đầu từ làng Pang Xim, gần thị trấn Tùng Nghĩa, cây số 270 trên đường lên Đà Lạt là nơi nhiều cọp, nhất là giống cọp “hoàng gia” lớn con, có bộ lông rực rỡ. Hồi ký viết chi ly về kỹ thuật săn cọp hiện đại, và tâm trạng người săn cọp, từ ý chí say sưa, đến niềm hoảng hốt và khoái cảm.
Theo lý thuyết, bắn cọp phải nhắm ngay vào đầu, giữa trán, cọp mới chết ngay. Trúng đạn vào nơi khác cọp vẫn đủ sức lê thân hình đi chỗ khác, mà người đi săn khó bề tìm ra, chưa kể là nguy hiểm. Sáng hôm sau, ông Lang và người Thượng hướng dẫn, truy tầm con hổ bị thương, lần theo vết máu. Cuối cùng, họ đã gặp lại con hổ: “Một con hổ khổng lồ, vàng rực và lông mướt đẹp tôi chưa từng thấy bao giờ, rượt theo người Thượng không xa quá một thước và lướt ngang qua mặt tôi, không qua một tầm chân đá. Cây súng Marlin sẵn trên tay tôi, nhưng biến cố xảy ra đột ngột và nhanh chóng quá, tôi không bắn kịp vào đầu hay vào hông nó, mà chỉ kịp bắn vào mông con vật khi cả thân hình của nó đã vượt khỏi tôi hơn một thước rồi”. Con hổ bị bắn vào mông vẫn còn sức tuôn chạy. Sau đó tác giả thuê voi để truy lùng đối tượng. Và như vậy là chấm dứt phần hấp dẫn.
Về chuyện vua Bảo Đại săn cọp, còn có lời kể của cụ Hoàng Nợ nguyên là một cận vệ của vua. Cụ Nợ năm nay đã trên 90 tuổi, đang sống ở TP. Đà Lạt, là người chuyên theo hầu Vua Bảo Đại trong những chuyến lên rừng xuống biển, chủ yếu là đi săn thú.
Cụ Nợ kể: “Khi đang ở dinh tại Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa), nếu muốn lên rừng Mê Vạn ở Đắk Lắk hay ghé Bảo Lộc – Lâm Đồng săn thú thì Vua Bảo Đại thường đích thân lái ôtô đến nơi. Trên đường đi, ông thường dừng ở những khu vực có cây cối xanh mát nghỉ ngơi. Tại đó, ông quan sát điểm rồi cưỡi voi vào khu vực săn bắn, lúc này tùy tùng sẽ dựng lều trên mô đất trống và tập kết quân nhu ở đấy…”.
Rừng Đắk Lắk theo ký ức của cụ Nợ thì thú nhiều vô kể, đặc biệt là cọp, voi rừng và con min (bò tót) con nào con nấy to đùng, nặng hàng tấn chứ không “lác đác”, “be bé” như bây giờ. Cụ Nợ nhẩm tính rằng trong những năm theo hầu Vua Bảo Đại đi săn thú, cụ cho rằng Vua Bảo Đại đã hạ gục hàng chục, thậm chí hàng trăm “ông ba mươi” (?!).
Mỗi khi đi săn thú như thế, Vua Bảo Đại cho tùy tùng mang hàng chục khẩu súng săn với nhiều kiểu dáng, đặc tính khác nhau. Tất cả súng săn thú của vua đều nhập từ Pháp, súng có ống ngắm, kiểu dáng đẹp, sang trọng.
Mỗi chuyến đi săn, tùy hành trình dài hay ít ngày mà cận thần sắp xếp, bố trí lượng người tháp tùng theo chân Vua Bảo Đại cho phù hợp, dao động 50 đến hơn 100 người. Tham gia chuyến đi săn của Vua Bảo Đại bao giờ cũng có quan đầu tỉnh và tù trưởng bộ tộc địa phương được mời đến, trước để vui, sau có chuyện gì thì ứng cứu xa giá kịp thời.
……..
Thời điểm này, nhiều người còn nhắc đến những chuyến săn cọp của vua Bảo Đại thời trẻ. Tài liệu sau này, có lẽ là thuộc những chứng từ mới nhất, là hồi ký săn cọp của Huỳnh Văn Lang, Cọp cái ba con. Ông này là Giám đốc viện Hối đoái của chính quyền Sài Gòn, chủ nhiệm tạp chí Bách Khoa từ 1957, một tay săn cọp nổi tiếng. Ông kể lại chuyến săn cọp vào trước Tết 1961, đã được báo Times of Vietnamđăng ảnh như là một tin tức quan trọng.
Cuộc săn bắt đầu từ làng Pang Xim, gần thị trấn Tùng Nghĩa, cây số 270 trên đường lên Đà Lạt là nơi nhiều cọp, nhất là giống cọp “hoàng gia” lớn con, có bộ lông rực rỡ. Hồi ký viết chi ly về kỹ thuật săn cọp hiện đại, và tâm trạng người săn cọp, từ ý chí say sưa, đến niềm hoảng hốt và khoái cảm.
Theo lý thuyết, bắn cọp phải nhắm ngay vào đầu, giữa trán, cọp mới chết ngay. Trúng đạn vào nơi khác cọp vẫn đủ sức lê thân hình đi chỗ khác, mà người đi săn khó bề tìm ra, chưa kể là nguy hiểm. Sáng hôm sau, ông Lang và người Thượng hướng dẫn, truy tầm con hổ bị thương, lần theo vết máu. Cuối cùng, họ đã gặp lại con hổ: “Một con hổ khổng lồ, vàng rực và lông mướt đẹp tôi chưa từng thấy bao giờ, rượt theo người Thượng không xa quá một thước và lướt ngang qua mặt tôi, không qua một tầm chân đá. Cây súng Marlin sẵn trên tay tôi, nhưng biến cố xảy ra đột ngột và nhanh chóng quá, tôi không bắn kịp vào đầu hay vào hông nó, mà chỉ kịp bắn vào mông con vật khi cả thân hình của nó đã vượt khỏi tôi hơn một thước rồi”. Con hổ bị bắn vào mông vẫn còn sức tuôn chạy. Sau đó tác giả thuê voi để truy lùng đối tượng. Và như vậy là chấm dứt phần hấp dẫn.
Về chuyện vua Bảo Đại săn cọp, còn có lời kể của cụ Hoàng Nợ nguyên là một cận vệ của vua. Cụ Nợ năm nay đã trên 90 tuổi, đang sống ở TP. Đà Lạt, là người chuyên theo hầu Vua Bảo Đại trong những chuyến lên rừng xuống biển, chủ yếu là đi săn thú.
Cụ Nợ kể: “Khi đang ở dinh tại Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa), nếu muốn lên rừng Mê Vạn ở Đắk Lắk hay ghé Bảo Lộc – Lâm Đồng săn thú thì Vua Bảo Đại thường đích thân lái ôtô đến nơi. Trên đường đi, ông thường dừng ở những khu vực có cây cối xanh mát nghỉ ngơi. Tại đó, ông quan sát điểm rồi cưỡi voi vào khu vực săn bắn, lúc này tùy tùng sẽ dựng lều trên mô đất trống và tập kết quân nhu ở đấy…”.
Rừng Đắk Lắk theo ký ức của cụ Nợ thì thú nhiều vô kể, đặc biệt là cọp, voi rừng và con min (bò tót) con nào con nấy to đùng, nặng hàng tấn chứ không “lác đác”, “be bé” như bây giờ. Cụ Nợ nhẩm tính rằng trong những năm theo hầu Vua Bảo Đại đi săn thú, cụ cho rằng Vua Bảo Đại đã hạ gục hàng chục, thậm chí hàng trăm “ông ba mươi” (?!).
Mỗi khi đi săn thú như thế, Vua Bảo Đại cho tùy tùng mang hàng chục khẩu súng săn với nhiều kiểu dáng, đặc tính khác nhau. Tất cả súng săn thú của vua đều nhập từ Pháp, súng có ống ngắm, kiểu dáng đẹp, sang trọng.
Mỗi chuyến đi săn, tùy hành trình dài hay ít ngày mà cận thần sắp xếp, bố trí lượng người tháp tùng theo chân Vua Bảo Đại cho phù hợp, dao động 50 đến hơn 100 người. Tham gia chuyến đi săn của Vua Bảo Đại bao giờ cũng có quan đầu tỉnh và tù trưởng bộ tộc địa phương được mời đến, trước để vui, sau có chuyện gì thì ứng cứu xa giá kịp thời.
……..